Các tài liệu, số liệu thống kê về tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng (VLXD) và hiện trạng sản xuất VLXD ở Việt Nam cho đến nay được lưu trữ rải rác dưới dạng hồ sơ văn bản và file Word, Excel, Mapinfo. Điều đó dẫn đến việc quản lý nhà nước đối với các nguồn tài nguyên khoáng sản làm VLXD, các cơ sở sản xuất VLXD trên các quy mô từ địa phương đến trung ương bị phân tán, gây khó khăn cho công tác sử dụng và cập nhật thông tin, làm kéo dài thời gian đưa ra các quyết định quản lý và hoạch định chính sách phát triển ngành vật liệu.
Hiện nay, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và tạo lập cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý đã trở thành phổ biến và là công cụ hữu ích nâng cao hiệu lực quản lý. Vì vậy ứng dụng CNTT lập cơ sở dữ liệu (CSDL) các nguồn tài nguyên khoáng sản làm VLXD, các cơ sở sản xuất VLXD theo các tiêu chí quản lý (chủng loại tài nguyên, chủng loại sản phẩm vật liệu, quy mô sản xuất,…) là rất cần thiết.
Hội đồng đã thảo luận các nội dung chính sau:
- Tên dự án nên đổi thành “Nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên khoáng sản làm VLXD và hiện trạng sản xuất VLXD ở Việt nam”;
- Căn cứ nội dung Nghị định 24a/2016/NĐ-CP xác định rõ các chủng loại VLXD chủ yếu và mở rộng, dự kiến không ít hơn nhóm 12 sản phẩm VLXD sẽ được đề cập trong dự án với các đặc tính quản lý tương ứng và mở rộng;
- Số liệu thống kê tài nguyên khoáng sản tương ứng các nhóm chủng loại sản phẩm VLXD nêu trên và các thông tin chi tiết về tài nguyên khoáng sản làm VLXD (tên, vị trí, trữ lượng,…) có tích hợp Mapinfo;
- Thời điểm thống kê đến 31.12.2015;
- Xây dựng CSDL: lựa chọn mô hình, hạ tầng kỹ thuật, phân quyền truy cập, bảo mật cơ sở dữ liệu và hệ thống quản lý, mã nguồn sử dụng.
Sau khi thảo luận, Hội đồng nhất trí thông qua dự thảo Báo cáo trên cơ sở chỉnh sửa và hoàn thiện theo các góp ý của Hội đồng và nhóm chuyên gia để trình Bộ Xây dựng nghiệm thu theo quy định.
Trung tâm Thông tin